Lịch sử hoạt động HMS Griffin (H31)

HMS Griffin, 1936-1942

Sau khi nhập biên chế, Griffin được phân về Chi hạm đội Khu trục 1 trực thuộc Hạm đội Địa Trung Hải. Nó đã hộ tống chiếc tàu biển chở hành khách SS Strathnaver di chuyển giữa MaltaAlexandria trong vụ khủng hoảng Munich vào tháng 9 năm 1938, rồi sau đó hộ tống tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Arethusa trong chuyến đi đến Aden. Nó mắc tai nạn va chạm với tàu khu trục mục tiêu HMS Shikari vào ngày 2 tháng 2 năm 1939, việc sửa chữa hoàn tất năm ngày sau đó.[5]

Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, Griffin vẫn đang ở lại Alexandria trong thành phần Chi hạm đội Khu trục 1, nhưng nó được điều động vào tháng 10 để phục vụ tại vùng biển nhà, và gia nhập lại chi hạm đội tại Harwich vào tháng 11 để tuần tra tại Bắc Hải và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại chỗ.[5] Nó đã cứu vớt những người sống sót từ tàu chị em Gipsy sau khi chiếc này trúng phải một quả mìn ngoài khơi Harwich vào ngày 21 tháng 11.[6] Nó bị hư hại trong cùng tháng đó và được sửa chữa cho đến ngày 6 tháng 12. Nhằm chuẩn bị cho Chiến dịch Na Uy, Griffin được điều động sang Hạm đội Nhà đặt căn cứ tại Scapa Flow vào tháng 4 năm 1940.[5]

Griffin đã hộ tống các tàu chiến chủ lực của Hạm đội Nhà khi chúng tiến quân vào Bắc Hải ngày 7 tháng 4, và tiếp tục nhiệm vụ này trong nhiều tuần lễ tiếp theo.[7] Vào ngày 24 tháng 4, nó cùng tàu khu trục Acheron đã chặn bắt tàu đánh cá Đức Schiff 26, đang trên đường hướng đến Narvik với hàng hóa trên tàu là mìn và thủy lôi.[8] Nó đã giúp triệt thoái binh lính Anh và Pháp khỏi Namsos và cứu vớt những người sống sót từ tàu khu trục Afridi sau khi chiếc này bị máy bay ném bom bổ nhào Junkers Ju 87 đánh chìm vào ngày 3 tháng 5; những chiếc Stuka cũng đã tấn công nhắm vào Griffin nhưng không thành công.[9] Sau đó nó được điều động sang Chi hạm đội Khu trục 13 thuộc Bộ chỉ huy Bắc Đại Tây Dương đặt căn cứ tại Gibraltar,[10] đã hộ tống các tàu chiến chủ lực của Lực lượng H trong trận Dakar vào ngày 23 tháng 9, nhưng không trực tiếp tác chiến.[11] Vào ngày 20 tháng 10, cùng với các tàu khu trục GallantHotspur, nó đã đánh chìm tàu ngầm Ý Lafolè ngoài khơi Melilla.[10] Sau đó nó hộ tống cho thiết giáp hạm Barham cùng các tàu tuần dương BerwickGlasgow trong Chiến dịch Coat vào đầu tháng 11, khi chúng gia nhập Hạm đội Địa Trung Hải. Bản thân Griffin được điều động sang Chi hạm đội Khu trục 14 đặt căn cứ tại Alexandria, và tham gia trận chiến mũi Spartivento bất phân thắng bại vào ngày 27 tháng 11, trong khuôn khổ Chiến dịch Collar.[12]

Trong Chiến dịch Excess, tàu chị em với nó HMS Gallant trúng phải một quả mìn ngoài khơi Pantellaria vào ngày 10 tháng 1 năm 1941, và Griffin đã cứu vớt hầu hết những người sống sót.[13] Đến tháng 2 năm 1941, nó được chuyển sang Hồng Hải nơi nó hộ tống tàu sân bay HMS Formidable trong các hoạt động của chiếc này nhằm hỗ trợ cho các hoạt động quân sự tại Somaliland dưới quyền kiểm soát của Ý ("Chiến dịch Canvas").[14] Nó đã hộ tống các tàu chiến chủ lực của Hạm đội Địa Trung Hải trong Trận chiến mũi Matapan vào ngày 28-29 tháng 3. Nó đã cùng với tàu chị em Greyhound tấn công một số tàu khu trục Ý trong một cuộc đụng độ ban đêm, nhưng nhanh chóng bị mất dấu khi đối phương ẩn trong các làn khói.[15] Vào ngày 15 tháng 4, nó cùng tàu khu trục Australia Stuartpháo hạm Gnat bắn phá các vị trí của phe Trục gần Sollum. Con tàu đã tham gia triệt thoái binh lính Anh và Australia khỏi Hy Lạp vào cuối tháng 4. Vào ngày 8 tháng 5, nó lại hộ tống các tàu chiến chủ lực của Hạm đội Địa Trung Hải khi chúng bảo vệ cho một đoàn tàu vận tải đi từ Alexandria đến Malta.[16] Trong chiến dịch rút lui khỏi Crete vào cuối tháng 5, Griffin đã giúp triệt thoái 720 người khỏi vịnh Souda.[10]

Trong Chiến dịch Exporter, Griffin đã hộ tống tàu tuần dương hạng nhẹ Australia HMAS Perth khi chiếc này bắn phá các vị trí do phe Vichy Pháp kiểm soát tại Li băng vào ngày 2 tháng 7.[17] Nó đã hộ tống các đoàn tàu vận tải đi và đến Tobruk đang bị phong tỏa từ tháng 7 đến tháng 11.[10] Vào ngày 25 tháng 11, nó hộ tống các thiết giáp hạm của Hạm đội Địa Trung Hải khi chiếc HMS Barham trúng phải ngư lôi từ tàu ngầm Đức U-331. Nó hộ tống tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Naiad khi chiếc này bắn phá Derna vào đầu tháng 12,[18] rồi được điều sang Chi hạm đội Khu trục 2 trong tháng đó.[10] Griffin đã hộ tống các đoàn tàu vận tải đi Malta trong tháng 1-tháng 2 năm 1942,[19] cho đến khi nó được điều động sang Hạm đội Đông đặt căn cứ tại Ấn Độ Dương vào cuối tháng 2.[10] Nó được phân về Lực lượng A của hạm đội khi Hải quân Nhật đột kích Ấn Độ Dương vào đầu tháng 4 năm 1942. Con tàu quay trở lại Địa Trung Hải để tham gia Chiến dịch Vigorous, một đoàn tàu vận tải khác đi từ Alexandria đến Malta trong tháng 6.[20] Nó quay trở lại Ấn Độ Dương sau đó và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại đây cho đến khi được lệnh quay trở về nhà để cải biến thành một tàu khu trục hộ tống vào tháng 9.[10]

Công việc cải biến được bắt đầu từ ngày 2 tháng 11 tại Southampton,[10] bao gồm việc tháo dỡ hai khẩu pháo QF 4,7 inch (120 mm) cùng khẩu 12 pounder phòng không, thay bằng một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog và bổ sung lượng mìn sâu mang theo phía đuôi. Các dàn radar Kiểu 286 và Kiểu 271 được trang bị, cũng như tăng cường hỏa lực phòng không tầm gần bằng các khẩu Oerlikon 20 mm.[21]

HMCS Ottawa, 1942-1946

Đang khi được tái trang bị, vào ngày 1 tháng 3 năm 1943, Griffin được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada, và được nhập biên chế vào ngày 20 tháng 3, bốn ngày trước khi việc nâng cấp hoàn tất. Con tàu được đổi tên thành HMCS Ottawa vào ngày 10 tháng 4 nhằm tưởng niệm chiếc HMCS Ottawa (H60) bị đánh chìm trước đó. Sau khi được chuẩn bị tại Tobermory, nó lên đường đi Canada, và được trao tặng như một món quà cho người dân Canada vào ngày 15 tháng 6.[10]

HMCS Ottawa (H31) trở thành tàu chỉ huy của Đội hộ tống C5 hoạt động giữa St. John's, NewfoundlandDerry, Bắc Ireland cho đến tháng 5 năm 1944, khi nó trở thành tàu chỉ huy của Đội hộ tống 11, vốn còn bao gồm các tàu khu trục HMCS Kootenay, HMCS Chaudière, HMCS GatineauHMCS St. Laurent với nhiệm vụ bảo vệ lực lượng tấn công trong cuộc Đổ bộ Normandy. Vào ngày 6 tháng 7 năm 1944, Ottawa, Kootenay cùng với tàu frigate Anh HMS Statice đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-678 ngoài khơi Beachy Head, Sussex. Sau đó Ottawa cùng Chaudière cũng đã đánh chìm chiếc U-621 vào ngày 16 tháng 8 gần La Rochelle, và hai ngày sau chúng lại đánh chìm chiếc U-984 về phía Tây Brest.[10]

Ottawa được tái trang bị tại St. John's từ ngày 12 tháng 10 năm 1944 đến ngày 26 tháng 2 năm 1945. Vào ngày 11 tháng 3, nó mắc tai nạn va chạm với tàu quét mìn HMCS Stratford ngoài khơi Halifax, và được sửa chữa cho đến ngày 30 tháng 4. Sau khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu vào tháng 5, con tàu đã vận chuyển binh lính Canada hồi hương cho đến khi nó ngừng hoạt động vào ngày 31 tháng 10. Ottawa bị bán cho hãng International Iron and Metal Company vào tháng 8 năm 1946 và bị tháo dỡ sau đó.[10]